Tin tức

Ý NGHĨA CỦA CÁC KẾT QUẢ SINH THIẾT NỘI SOI ĐƯỜNG TIÊU HÓA BẤT THƯỜNG

Ngày 18/12/2023
BS. Nguyễn Thị Duyên
Sinh thiết nội soi đường tiêu hóa là thủ thuật nhằm lấy mẫu mô từ mô đường tiêu hóa như dạ dày, tá tràng, đại tràng hoặc ở nhiều vị trí khác nhau để làm xét nghiệm giải phẫu bệnh. Từ đó, các bác sĩ xác định bệnh lý tại đường tiêu hóa mà bệnh nhân đang gặp phải. Để thực hiện lấy mẫu bệnh phẩm sinh thiết, bệnh nhân cần được làm thủ thuật nội soi đường tiêu hóa, qua hình ảnh nội soi, bác sĩ sẽ xem xét tổn thương và tiến hành lựa chọn vị trí cần thiết phải sinh thiết làm xét nghiệm giải phẫu bệnh. Sinh thiết nội soi đường tiêu hóa rất có ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh lý ống tiêu hóa, giúp tầm soát và phát hiện sớm các tổn thương bất thường cũng như ung thư đường tiêu hóa.

1. Các kết quả sinh thiết nội soi đường tiêu hóa bất thường có thể gặp

Niêm mạc đường tiêu hóa là một hàng rào bảo vệ quan trọng giữa môi trường bên ngoài và bên trong cơ thể. Lớp niêm mạc đường tiêu hóa phải chịu rất nhiều tác động nội sinh cũng như ngoại sinh bao gồm độ pH axit của dạ dày, chấn thương trong lòng ống tiêu hóa, thức ăn, các tổn thương vật lý. Vì vậy, niêm mạc đường tiêu hóa luôn phải chịu nhiều thương tổn, đòi hỏi phải có phản ứng ngay lập tức để ngăn chặn thương tổn và chữa lành. Với các tác nhân từ chế độ ăn uống, hệ vi sinh vật, quá trình phục hồi này phải diễn ra trong toàn bộ đường tiêu hóa. Hơn nữa các ảnh hưởng bệnh lý, bao gồm mầm bệnh virus, vi khuẩn vũng như khả năng miễn dịch ở niêm mạc, ví dụ bệnh Crohn có thể dẫn đến sự tổn hại đến khả năng phòng vệ của niêm mạc. Ngoài việc chữa lành, trong quá trình tái tạo lại niêm mạc dạ dày có thể xuất hiện biến đổi tân sinh khi bị viêm mạn tính. Do đó, khi sinh thiết nội soi đường tiêu hóa sẽ thấy một số kết quả giải phẫu bệnh bất thường.

Các kết quả sinh thiết nội soi đường tiêu hóa bất thường hay gặp bao gồm:

  • Dị sản
  • Loạn sản
  • Ung thư biểu mô

sinh thiết nội soi đường tiêu hóa

Các hình thái bình thường và bất thường của mô dạ dày trên sinh thiết nội soi

2. Đặc điểm giải phẫu bệnh và ý nghĩa cáckết quả sinh thiết nội soi đường tiêu hóa bất thường

2.1 Tổn thương dị sản

Dị sản được định nghĩa là sự biến đổi về hình thái và chức năng từ một mô này sang mô khác. Dị sản có thể xảy ra do phản ứng của mô trước những kích thích sinh lý hay bệnh lý. Trên sinh thiết nội soi đường tiêu hóa, các nhà giải phẫu bệnh có thể gặp hình thái của biểu mô ruột ở thực quản hoặc dạ dày, hay có thể thấy biểu mô của dạ dày ở ruột.

Thực quản

Các tổn thương dị sản có thể gặp ở sinh thiết nội soi thực quản

  • Dị sản dạng biểu bì: đây là một tổn thương lành tính với đặc điểm biểu mô vảy thực quản có lớp hạt nổi bật và lớp sừng phát triển. Tổn thương này gặp ở người trung niên và người gìa có tiền sử hút thuốc, uống rượu và có nguy liên quan đến loạn sản vàung thưbiểu mô tế bào vảy. Tỷ lệ bắt gặp dị sản biểu bì rất thấp, chiếm khoảng 0,2% các sinh thiết thực quản và chỉ chẩn đoán được trên hình ảnh sinh thiếtnội soivì không có triệu chứng lâm sàng, hay hình ảnh nội soi đặc hiệu.
  • Dị rản ruột: gặp trong bệnh Barrett thực quản khi thay thế biểu mô vảy lát tầng ở thực quản bằng biểu mô trụ có tế bào hình đài chế nhầy của ruột. Đây là một tổn thương tiền ung thư và làm tăng nguy cơ ung thư biểu mô tuyến ở thực quản. Barrett thực quản tìm thấy ở khoảng 5-10% người mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Trên sinh thiết có thể có loạn sản hoặc không có loạn sản, khi có loạn sản cần phân chia mức độ loạn sản độ thấp hoặc cao. Với những bệnh nhân Barrett không có loạn sản thì nguy cơ tiến triển loạn sản độ thấp là 4,3% trên năm và tiến triển thành loạn sản độ cao là 0,9% trên năm. Tỷ lệ tiến triển thành ung thư trong vòng 5 năm là 20% với loạn sản độ thấp và 50% với loạn sản độ cao.


Dạ dày

Tại dạ dày có thể gặp dị sản ruột, đây là tình trạng niêm mạc dạ dày bình thường được thay thế bằng niêm mạc ruột chứa các tế bào hình đài chế nhầy, có hoặc không có tế bào hấp thu và tế bào Paneth. Chẩn đoán dị sản ruột ở dạ dày dựa vào sự hiện diện của tế bào hình đài chế nhầy. Đây là một tổn thương tiền ung thư và có liên quan đến ung thư biểu mô dạ dày. Tỷ lệ dị sản ruột là 25% và hằng năm có 0,1-10% dị sản dạ dày tiến triển thành ung thư biểu mô dạ dày. Tình trạng này liên quan đến nhiễm H.pylori mạn tính, trào ngược axit, hút thuốc lá hoặc thói quen ăn nhiều muối. Dị sản ruột được chia thành hai loại: dị sản hoàn toàn và không hoàn toàn. Dị sản hoàn toàn khi có đầy đủ các thành phần của biểu mô ruột gồm tế bào hình đài chế nhầy, tế bào hấp thu, tế bào Paneth. Dị sản không hoàn toàn khi tế bào hấp thu và tế bào Paneth có hoặc không, niêm mạc trụ có kích thước thay đổi ở các giai đoạn biệt hóa khác nhau. Tiêu chuẩn vàng chẩn đoán dị sản ruột ở dạ dày là xét nghiệm giải phẫu bệnh. Theo hướng dẫn chẩn đoán của Sydney, sinh thiết nội soi được khuyến nghị để phân loại và đánh giá dị sản ruột ở dạ dày.

Ruột non và đạitrực tràng

Dị sản ở ruột non và đại trực tràng là tình trạng hiếm gặp. Tuyến dạ dày có thể xuất hiện ở ruột thường liên quan đến bất thường bẩm sinh gọi là lạc chỗ dạ dày tại ruột, gặp trong các bệnh lý như túi thừa Meckel, ruột đôi. Dị sản dạ dày thực sự ở ruột rất hiếm gặp. Cơ chế dị sản dạ dày thực sự tại ruột chưa được hiểu rõ, nhưng có thể xảy ra thứ phát sau phản ứng chữa lành sau tổn thương loét ở ruột.

Một loại dị sản ở đại tràng có thể gặp là dị sản tế bào Paneth. Tế bào Paneth hầu hết nằm ở ruột non, một phần nhỏ nằm ở manh tràng và đại tràng ngang. Dị sản tế bào Paneth khi chúng được nhìn thấy ở những đoạn ruột mà thường không có như đại tràng xuống, đại tràng xích ma, trực tràng. Tình trạng này thường được mô tả nhiều nhất trong bệnh ruột viêm, bao gồm cả viêm đại tràng loét haybệnh Crohn. Ở người trưởng thành, nó được coi là dấu hiệu của tiền sử viêm đại tràng lâu dài, tương quan với thời gian mắc bệnh và được cho là do tác động của quá trình sửa chữa, tái tạo.

2.2 Tổn thương loạn sản

Loạn sản là sự sinh sản một mô bất thường do sự rối loạn phát triển của bào thai hoặc của tế bào mô đang trưởng thành, đang tái tạo hoặc đang biệt hóa. Sự biến đổi này bao gồm cả hình thái, cấu trúc mô và tế bào. Đây là một tổn thương tiền ung thư. Tùy theo mức độ bất thường của mô và tế bào, loạn sản được chia thành các loại và mức độ khác nhau.

Loạn sản ở thực quản

Tổn thương loạn sản ở thực quản được chia thành 2 loại: loạn sản Barrett và loạn sản tế bào vảy

  • Loạn sản Barrett: là tình trạng tân sinh biểu mô ở vùng dị sản biểu mô tuyến của thực quản. Theo hình thái mô học, loại loạn sản này được chia thành hai típ là típ ruột và típ bề mặt. Theo mức độ, loạn sản được chia thành độ thấp và độ cao.

Loạn sản độ thấp cho thấy tế bào bất thường nhưng không có cấu trúc bất thường. Nguy cơ tiến triển thành ung thư ở những bệnh nhân có tổn thương loạn sản độ thấp là 20% trong vòng 5 năm.

Loạn sản độ cao được chẩn đoán khi bất thường tế bào nhiều hơn và có bất thường cấu trúc mô học. Tỷ lệ tiến triển thành ung thư trong vòng 5 năm của loạn sản độ cao là 50%.

  • Loạn sản biểu mô vảy: là tình trạng tân sinh bất thường tế bào biểu mô vảy thực quản và không có xâm nhập. Chẩn đoán loạn sản biểu mô vảy yêu cầu có sự xuất hiện bất thường của cả tế bào biểu mô và cấu trúc. Có hai hệ thống chia độ loạn sản biểu mô vảy, một hệ thống chia thành 3 mức độ: nhẹ, vừa, nặng; một hệ thống chia thành 2 mức độ: cao và thấp. Loạn sản biểu mô vảy độ cao được cho là tương đương ung thư biểu mô tại chỗ theo phân loại của Nhật Bản và một số nước châu Á. Theo nghiên cứu tại Trung Quốc theo dõi tiến triển trong vòng 3,5 năm, có 5% bệnh nhân loạn sản mức độ nhẹ tiến triển thành ung thư, trong khi loạn sản mức độ vừa là 27% và loạn sản nặng là 65% tiến triển thành ung thư biểu mô vảy.

Loạn sản ở dạ dày

Loạn sản biểu mô ở dạ dày là tình trạng biến đổi tân sinh bất thường biểu mô mà không có bằng chứng của xâm nhập mô đệm. Tình trạng này hầu hết không có triệu chứng lâm sàng mà được chẩn đoán qua nội soi và sinh thiết nội soi. Ở những khu vực địa lý có tỷ lệ mắc cao, có thể gặp loạn sản dạ dày ở 10-15% dân số. Sinh thiết nội soi có vai trò quan trọng trong chẩn đoán, tỷ lệ gặp loạn sản độ thấp chiếm từ 1-2%, trong khi loạn sản độ cao và ung thư biểu mô tuyến chiếm tỷ lệ 4-6% các sinh thiết nội soi.

Loạn sản dạ dày được chia thành hai típ là típ ruột và típ bề mặt. Theo mức độ, loạn sản được chia thành độ thấp và độ cao. Theo một số hiệp hội giải phẫu bệnh các quốc gia khác nhau, loạn sản biểu mô độ cao được cho là ung thư biểu mô không xâm nhập.

Loạn sản biểu mô dạ dày làm tăng nguy cơ tiến triển thành ung thư biểu mô tuyến xâm nhập. Khi theo dõi một lượng lớn bệnh nhân trong thời gian hơn một năm, người ra nhận thấy tỷ lệ tiến triển thành ung thư biểu mô tuyến xâm nhập của loạn sản độ thấp là 9%, trong khi loạn sản độ cao là 69%.

Loạn sản ở đại trực tràng

Loạn sản ở đại trực tràng là một tổn thương tiền ung thư, có thể có hoặc không có biểu hiện trên hình ảnh nội soi đường tiêu hóa, xác định chính xác thông qua sinh thiết nội soi. Việc phát hiện và kiểm soát tổn thương loạn sản làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do ung thư biểu mô đại trực tràng.

Hầu hết các tổn thương loạn sản đại trực tràng có thể phát hiện được qua nội soi đường tiêu hóa. Hình ảnh có thể gặp dạng polyp (có cuống hoặc không cuống) hoặc tổn thương không polyp (nhô cao hoặc lõm xuống). Các tổn thương nhìn thấy được có thể được cắt bỏ qua sinh thiết nội soi. Một số trường hợp không có biểu hiện trên nội soi và phát hiện ngẫu nhiên qua sinh thiết nội soi.

Đặc điểm giải phẫu bệnh của loạn sản biểu mô cũng tương tự như những đoạn khác của ống tiêu hóa. Tổn thương loạn sản được chia thành hai mức độ là độ thấp và độ cao. Theo dõi và điều trị loạn sản ở đại trực tràng phụ thuộc rất nhiều vào hình thái trên nội soi đường tiêu hóa. Hình ảnh nội soi cho thấy tổn thương dạng phẳng hay không đặc hiệu, loạn sản độ thấp có tỷ lệ tiến triển trong vòng 5 năm thành loạn sản độ cao hoặc ung thư biểu mô là 54%. Trong khi đó, tỷ lệ tiến triển thành ung thư xâm nhập của loạn sản độ cao là từ 40-90%. Loạn sản độ thấp ở tổn thương polyp hay còn gọi là u tuyến, có tỷ lệ tiến triển thành ung thư rất thấp, và có thể cắt bỏ được hoàn toàn.

2.3 Ung thư biểu mô

Ung thư biểu mô đường tiêu hóa là tổn thương ác tính của biểu mô thực quản, dạ dày, đại trực tràng. Tùy theo vị trí giải phẫu, mỗi đoạn của đường tiêu hóa có các loại ung thư biểu mô khác nhau.

Nội soi đường tiêu hóa rất có giá trị trong việc phát hiện những tổn thương tiền ung thư và ung thư. Những can thiệp cắt bỏ tổn thương ở giai đoạn sớm như cắt polyp, cắt hớt niêm mạc qua nội soi, cắt hạ niêm mạc đang ngày càng được phát triển giúp phát hiện và điều trị những tổn thương tiền ung thư và ung thư ở giai đoạn sớm. Giải phẫu bệnh đóng vai trò then chốt, là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán dị sản, loạn sản và ung thư biểu mô. Những tổn thương nhỏ, ít xâm lấn có thể cắt bỏ hoàn toàn thông qua nội soi mà không cần phải mổ cắt đoạn ống tiêu hóa. Việc đánh giá giải phẫu bệnh của mẫu mô sinh thiết nội soi có vai trò trong định hướng phương án điều trị tiếp theo trong những trường hợp có kết quả bất thường sinh thiết đường tiêu hóa.

Bệnh viện Medlatec chúng tôi cung cấp các gói khám sức khỏe tầm soát các tổn thương đường tiêu hóa và có đầy đủxét nghiệm giải phẫu bệnhcần thiết để đánh giá tình trạng bệnh lý và những bất thường trên sinh thiết nội soi đường tiêu hóa. Mọi nhu cầu liên hệ thông tin, khách hàng có thể liên hệ với tổng đài1900565656để được tư vấn cụ thể.

Bình luận ()

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt trước khi đăng.

Lựa chọn dịch vụ

Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà giúp khách hàng chủ động tầm soát bệnh lý. Đồng thời tiết kiệm thời gian đi lại, chờ đợi kết quả với mức chi phí hợp lý.

Đặt lịch thăm khám tại MEDLATEC

Đặt lịch khám tại cơ sở khám chữa bệnh thuộc Hệ thống Y tế MEDLATEC giúp chủ động thời gian, hạn chế tiếp xúc đông người.
Baidu
map